Các tác phẩm nổi tiếng Bùi Bỉnh Trục

Bính Thìn Đông Cao độ sơ thu nhàn vọng

Bài thơ có tên chữ Hán là 丙辰東皋渡初秋閒望, ý nghĩa của tên bài thơ là "Đầu thu năm Bính Thìn ở bến Đông Cao[3] ngắm cảnh". Đây là một bài văn tả cảnh được sáng tác trong thời kỳ đất nước loạn lạc. Bài thơ thuộc thể thơ ngũ ngôn bát cú và được viết dưới dạng chữ Hán. Dưới đây là các bản nguyễn văn, phiên âm, dịch thơ và dịch nghĩa của bài thơ dựa theo các cuốn sách

Nguyên văn

丙辰東皋渡初秋閒望  

東皋一路遠,

河水三州平。

林潦雲濤闊,

江秋草樹明。

商船依曲渚,

沙鳥戲新晴。

傘島掛天峙,

雄哉稱二京。

Phiên âm

Bính Thìn Đông Cao độ sơ thu nhàn vọng

Đông Cao nhất lộ viễn,

Hà thuỷ tam châu bình.

Lâm lạo vân đào khoát,

Giang thu thảo thụ minh.

Thương thuyền y khúc chử,

Sa điểu hí tân tình.

Tản đảo quải thiên trĩ,

Hùng tai xứng nhị kinh.

Dịch thơ

Bính Thìn Đông Cao độ sơ thu nhàn vọngĐông Cao một đường thẳngSông nước ba vùng lànhLũ rừng mây sóng lộngSông thu cỏ cây xanhThuyền buôn đậu quang bãiCò sếu rỡn nắng hanhTản đảo trời sững núiHùng thay chốn đế kinh

Dịch nghĩa

Đầu thu năm Bính Thìn ở bến Đông Cao ngắm cảnh

Đông Cao một đường xa tít

Sông nước ba bãi bằng phẳng

Rừng mùa nước lên sóng mây mênh mông

Sông tiết thu sang cỏ cây tươi sáng

Thuyền buôn dựa bến vòng

Chim bãi đùa trời tạnh

Tản đảo sừng sững như treo giữa trời

Hùng vĩ thay xứng đáng với nhị kinh

Dục Khánh Phật đài

Tên bài thơ chỉ đến Đài Phật của chùa Dục Khánh - một ngôi chùa trước ở gần Hồ Tây. Bài thơ được viết dưới dạng chữ Hán và thể thơ thất ngôn bát cú. Đây cũng là bài thơ được viết dưới thời đất nước loạn lạc. Cụm từ Dực thánh hoàng trong bài thơ Chỉ vua Lê Thánh Tông - người sáng lập ra tổ chức văn thơ Tao Đàn. Hội Tao Đàn tồn tại trong hai năm cuối đời của vua Lê Thánh Tông do ông làm Tao Đàn nguyên soái. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn bản nguyên âm được dựa theo cuốn Thăng Long thi văn tuyển (Bùi Hạnh Cẩn biên dịch, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2001)

Phiên âm

Dục Khánh Phật đài

Tam bách niên tiền Dực thánh hoàng

Anh chung tư dục cửu lưu phương

Linh quang bách kiến trường minh chúc

Thuỵ ái thiên thu bất đoạn hương

Hoạt chuyển pháp luân công hiệu đại

Mặc phù hoàng cực đạo hà xương

Nhất hồ phúc ấm xuân vô hạn

Thời phát Tao Đàn khách tứ hương

Dịch thơ

Năm quá ba trăm Dực thánh hoàngAnh hoa dồn đúc mãi thơm luônSáng thiêng trăm kiếp dài thân nếnLành tốt ngàn thu chả dứt hươngKhéo chuyển xe thiền công quá lớnGiúp ngầm nghiệp báu đạo mênh mangMột trời phúc đẹp xuân không hạnTứ khách Tao Đàn chợt vấn vương

Tân Hợi tuế đán

Bài thơ có tên chứ Hán là 辛亥歲旦. Bài thơ được viết năm Tân Hợi 1791, tức mồng 1 năm Quang Trung thứ 4 nhà Tây Sơn. Bài thơ nói về sự thay đổi thời đại đặc biệt là ở đoạn cuối bài thơ có nói đến “thay đổi”, có lẽ là thay đổi từ giai đoạn Vua Lê - Chúa Trịnh đến thời kì nhà Tây Sơn cũng đồng nghĩa với sự thay đổi từ thời đất nước loạn lạc sang thời hòa bình của đất nước. Đây là bài thơ có đặc điểm giống với bài Bính Thìn Đông Cao độ sơ thu nhàn vọng ở điểm đều được viết dưới dạng chữ Hán, đều là thể thơ ngũ ngôn bát cú, đều được viết ở thời đất nước loạn lạc và được trích từ nhiều cuốn sách giống nhau như Danh nhân văn hoá Bùi Huy Bích (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc, Thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam, 1998), Hoàng Việt thi tuyển (Nhà xuất bản Văn học, 2007), Tồn Am Bùi Huy Bích (Nhà xuất bản Văn học, 2007) và đặc biệt được dịch thơ bởi tác giả nổi tiếng Lê Quý Đôn.

Nguyên văn

辛亥歲旦  

有華堪驗歲,

無曆不明春。

柳徑知非晉,

桃源尚憶秦。

在家渾似客,

每事恰輸人。

最是經遷革,

俄成白髮新。

Phiên âm

Tân Hợi tuế đán

Hữu hoa kham nghiệm tuế,

Vô lịch bất minh xuân.

Liễu kính tri phi Tấn,

Đào Nguyên thượng ức Tần.

Tại gia hồn tự khách,

Mỗi sự kháp thâu nhân.

Tối thị kinh thiên cách,

Nga thành bạch phát tân.

Dịch thơ

Tân Hợi tuế đánCó hoa mới biết TếtKhông lịch biết đâu xuânNgõ liễu nào phải TấnNguồn Đào nhớ chuyện TầnỞ nhà như khách trọMọi việc kém người dânTrải qua bao thay đổiPhút chốc đầu trắng ngần

Dịch nghĩa

Mồng một tết Tân Hợi

Có hoa nở mới biết là Tết

Không có lịch không rõ được xuân

Thấy ngõ liễu biết không phải Tấn

Thấy nguồn đào hãy còn nhớ Tần

Ở nhà mình mà như khách

Mọi việc đều là thua người

Nhất là từ sau khi biến đổi

Lý Ông Trọng từ

Ý nghĩa bài thơ chỉ đến Đền Lý Ông Trọng. Bài thơ được viết dưới dạng chữ Hán, thể thơ được sử dụng là thất ngôn bát cú và được sáng tác trong thời kỳ loạn lạc của đất nước. Không nhớ phần phiên âm được trích ra từ đâu, chỉ biết phần dịch thơ của tác giả Bùi Hạnh Cẩn.

Phiên âm

Lý Ông Trọng từ

Để chưởng càn khôn lục bách châu,

Viêm bang sóc điện tráng tai du.

Kim nhân nhiếp địch uy như tại,

Thiết võng tiêm yêu sự quả phầu.

Chiêm tượng kiến thần sinh Hiệu uý,

Đàm kinh nhập mộng lão xuân thu.

Tam thiên niên hạ linh thanh viễn,

Sắt sắt tây phong Nhị thuỷ lưu.

Dịch thơ

Đền Lý Ông TrọngTrời đất đổi thay sáu trăm lượtNgười nam đất bắc chuyến chơi hùngTượng vàng ngăn giặc oai như cũLưới sắt trừ yêu chuyện thực khôngNhìn miếu thấy thần đang sống độngBàn kinh vào mộng tháng năm ròngBa ngàn năm đó linh thiêng mãiSông Nhị đìu hiu ngọn gió lồng

Đản Trai công thi tập

Tên chữ Hán của bài thơ là 亶齋公詩. Đây là một tập thơ của Bùi Trục.Tuy nhiên, hiện nay không còn lưu giữ được bất kì bài thơ nào của tập thơ này.

Bùi Đản Trai trích đối

Tên chữ Hán của bài thơ là 裴亶齋摘對. Đây cũng là một tập thơ của Bùi Bỉnh Trục. Cũng giống như tập Đản Trai công thi tập, Bùi Đản Trai trích đối cũng không lưu giữ được bất kì bài thơ nào của tập này.